Lịch Sử Nha Kỹ Thuật
Friday, May 10, 2013
Tuesday, April 23, 2013
Nha Kỹ Thuật
Vì NKT/BTTM mang vỏ bọc là một Nha Sở nên danh từ Chủ sự Phòng được xử dụng thay
vì Trưởng Phòng.
Nhiều Phòng được tổ chức dưới một Sở. Sở Hành Quân / Tình Báo gồm Phòng Hành Quân / Huấn Luyện, Phòng Tình Báo và Phòng Truyền Tin. Sở Hành Chánh / Tiếp Vận gồm Phòng Nhân Viên Phòng Tiếp Vận và Phòng Tài Chánh. Sở Tâm Lý Chiến cũng trực thuộc Bộ Chỉ Huy / Nha, gồm nhiều phòng và các Đài Phát thanh. (Sở này nhiều khi hiểu lầm là một tổ chức chiến đấu, giống như Sở Liên Lạc hay Sở Công Tác).
Nhiều Phòng được tổ chức dưới một Sở. Sở Hành Quân / Tình Báo gồm Phòng Hành Quân / Huấn Luyện, Phòng Tình Báo và Phòng Truyền Tin. Sở Hành Chánh / Tiếp Vận gồm Phòng Nhân Viên Phòng Tiếp Vận và Phòng Tài Chánh. Sở Tâm Lý Chiến cũng trực thuộc Bộ Chỉ Huy / Nha, gồm nhiều phòng và các Đài Phát thanh. (Sở này nhiều khi hiểu lầm là một tổ chức chiến đấu, giống như Sở Liên Lạc hay Sở Công Tác).
Tóm lại, Nha Kỹ Thuật / Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có 4 đơn vị Hành Quân sau đây:
Sở Liên Lạc.
Sở Công Tác.
Sở Phòng Vệ Duyên Hải.
Sở Không Yễm, và
Ba (3) Sở thuộc Bộ Chỉ Huy / Nha gồm:
-Sở Hành Quân/ Tình Báo.
-Sở Hành Chánh/Tiếp Vận.
-Sở Tâm Lý Chiến.
Mặc dầu Sở Tâm Lý Chiến đãm trách nhiều hoạt động quan trọng, nhưng vẫn là một tổ chức tham mưu thuộc Bộ Chỉ Huy Nha.
Mỗi Sở thuộc BCH Nha được đặt dưới sự trách nhiệm của một Chánh Sự Vụ.
Mỗi Sở đãm trách
Hành Quân đặt dưới quyền điều khiển của một Chỉ Huy Trưỡng.
Ngoài ra, NKT còn có các đơn vị trực thuộc khác như Đại Đội Công Vụ, Đại Đội Quân Y / Đại Đội Truyền Tin v.v..
Tôi nhắc nhở sự việc này để giúp anh em hiểu rỏ hơn tổ chức của NKT để tránh nhầm lẫn khi đề cập đến các công tác hay tổ chức của đơn vị NKT. Nếu có gì thắc mắc, xin liên lạc với tôi. Tôi sẽ cung cấp thêm chi tiết theo sự hiểu biết hoạc trí nhớ của mình.
Lữ Triệu Khanh.
Cựu Chánh Văn Phòng / Gíam Đốc / Nha Kỹ Thuật.
Cựu Chủ Sự /Phòng Hành Quân HL/NKT.
(1961-1975)
Saturday, April 20, 2013
Wednesday, April 3, 2013
Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Nha Kỹ Thuật / Bài Viết của Trung Tá Phan Trọng Sinh
Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Nha Kỹ Thuật
Trước
đây khoảng hơn một năm, khi anh Nguyễn Mạnh Tường -Đại tá NM Tường- từ
San Diego tới trú ở Moss Beach,CA- tôi có đến thăm anh vài lần. Nhắc
lại hồi 2005 tôi đến đón anh ở San Diego đi dự buổi họp của chiến hữu
NKT ở Orange County, anh Tường có nói chừng nào có tổ chức họp mặt ở San
Jose, chúng mình sẽ tới gặp lại anh em cũ. Năm nay 2011 có Tiểu Hội NKT
ở San Jose nhưng anh Tường lại không thể đến!
Tôi
xin được kể đôi chút về Nguyễn Mạnh Tường. Đã có những bài báo nói về
Mãnh sư Nguyễn Mạnh Tường thời gian anh phục vụ tại Phú Yên, nhưng chưa
có ai biết anh đã làm những gì cho SLL nói riêng và cho NKT nói chung.
Tôi xin được bổ túc phần nào về thời gian Tường ở SLL và NKT.
......
Sau
Cách Mạng 1963, Đại Tá Hồ Tiêu về làm CHT Sở Liên Lạc, lúc đầu Đại Tá
mang về SLL một số sĩ quan nhảy dù trong đó có tôi, các Đại úy Nguyễn
Viết Cần, Nguyễn Thế Phồn, Nguyễn Văn Thanh, các Trung úy Trần Lưu Huân,
Trần Thụy Ly, các Thiếu úy Văn Thạch Bích, Lê Minh, Nguyễn Văn Thụ,
Nguyễn Hải Triều, Vương Vĩnh Phát, Phan Nhật Văn, Nguyễn Văn
Am...vv...Từ các đơn vị không phải nhảy dù có Trung Tá Ngô Văn Hùng CHP,
Đại úy Hào, Đại úy Trung, Trung úy Lê Quang Tiềm, Thiếu úy Nguyễn Cẩm,
Thiếu úy Bùi Minh...vv.
Khởi đầu Đại
Tá Hồ Tiêu đã chịu nhiều áp lực để tiếp tục công tác mật vụ của Sở Nam.
Đại Tá HT có Trung Tá Ngô Văn Hùng làm CHP lo việc cải tổ để có thể
tiếp nối sứ mệnh của Sở Nam. Ngoài Trung Tá Hùng còn có các Sĩ quan từng
quen việc Phòng Nhì và An Ninh như Đại úy Phồn, Đại Úy Hào, Đại Trung, Thiếu úy Triều, Thiếu úy Bùi Minh....
Tháng
1-1964 tôi mới về trình diện SLL và gặp Tường là TP3 của Sở, tôi làm
Phụ Tá TP2 cho Nguyễn Viết Cần. Trong thời gian này, tôi được chỉ thị
hợp tác với TP3 Nguyễn Mạnh Tường để hoàn tất kế hoạch hành quân Hạ Lào.
Anh Cần rời SLL khoảng tháng 2 hay 3-1964 và tôi thay anh ấy ở chức vụ
TP2.
Sau
khi tôi nhận chức vụ TP2/SLL từ Đại úy Cần, một hôm mở kho lưu trữ
những tài liệu của Sở Nam tập trung về BCH/SLL, tôi đã thấy những hồ sơ
của các chính khách VN mà tên tuổi đã được nhắc tới trên báo chí như
Nguyễn Tường Tam, Trần Quốc Bửu, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Hương...vv..,
gần như hầu hết các chính khách tên tuổi vào thời ấy đều có một hồ sơ
cá nhân rất chi tiết. Điều bất ngờ là có cả hồ sơ về Nguyễn Mạnh Tường
và Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu! Tôi có kể chuyện này cho Tường.
Chúng tôi trao đổi ý kiến và đều đồng ý không muốn SLL theo đường lối cũ
của ĐT Lê Quang Tung.
Tôi
trình sự việc lên ĐT HT và được chỉ thị lựa một số hồ sơ để Đại Tá coi.
Một tuần sau, tôi được gọi lên văn phòng CHT, buổi họp có mặt Đại Tá
CHT, CHP Ngô Văn Hùng và tôi. Trung Tá Hùng đựợc hỏi ý kiến trước về kho
tài liệu của Sở Nam. Trung Tá Hùng rất phấn khởi cho rằng số tài liệu
trên giúp ích rất nhiều trong việc cải tổ để tiếp tục trách nhiệm của Sở
Nam. Được hỏi ý kiến, tôi trình rằng tôi chỉ được huấn luyện và có chút
kinh nghiệm về Tình Báo Chiến Trường, tôi hoàn toàn không có kinh
nghiệm gì về công tác Mật Vụ -nôm na là theo dõi, bắt bớ, thẩm vấn khai
thác phạm nhân. Nếu quyết định của CHT theo đường hướng tái lập Sở Nam
thì tôi xin được thay thế bằng ĐU Hào hay ĐU Trung là những người có
nhiều kinh nghiệm hơn.
Buổi
họp kết thúc không biết quyết định của ĐT HT ra sao. Nhưng chỉ vài ngày
sau ĐT HT chỉ thị tôi tự tay thiêu hủy tất cả các hồ sơ đó và chú trọng
phát triển kế hoạch hành quân thu thập tin tức vùng Hạ Lào.
Xin
thú thật, khi đưa ý kiến chống lại ý kiến của CHP NV Hùng, ngoài lý do
như đã nêu trên là không có kinh nghiệm tổ chức mật vụ, tôi cũng có ý
riêng không thích công tác đó vì nó từng liên quan đến Nguyễn Mạnh Tường
và anh ruột tôi là Phan Trọng Chinh. Gia đình tôi ai cũng qúy mến
Nguyễn Mạnh Tường, Mẹ tôi còn qúy Tường hơn tôi, Cụ thường nói 2 thằng
cùng tuổi, cùng lùn lùn giống nhau, thấy đứa nọ lại nhớ đứa kia.
Vào
thời gian này các cơ quan tình báo của VNCH và đồng minh đều xác nhận
Đoàn 559 của CSBV bắt đầu hoạt động ở Hạ Lào. Nhu cầu tình báo đặt ra là
phải thu thập tin tức về hoạt động của Đoàn này. LLĐB VN với các cố vấn
Mỹ đã thực hiện một cuộc hành quân thả dù đêm nhiều toán Delta xuống
vùng Tchépone, Hạ Lào. Tôi và Nguyễn Mạnh Tường ra Nha Trang để theo dõi
và nghiên cứu cuộc hành quân. Cuộc hành quân hoàn toàn thất bại vì
nhiều lý do. Toán không được thả đúng DZ, bị thương vong vì tai nạn,
thất lạc không tập hợp được. Mười phần chỉ có 1,2 phần tìm về được tới
đồn biên phòng, đa số mất tích và bị bắt. Một biệt đội 3 chiếc trực thăng khả dụng nhưng chỉ ứng chiến, và dùng chuyên chở các sĩ quan từ Nha Trang tới các đồn biên phòng.
Trong
phiếu trình CHT SLL do anh Tường thảo và rồi được trình lên Đại Tướng
TTMT Cao Văn Viên, anh đề nghị dùng các đồn biên phòng làm căn cứ xuất
phát, anh đề nghị dùng trực thăng xâm nhập và triệt thoái, anh đề nghị
KQVN thành lập và tăng phái 1 Biệt Đoàn Trực Thăng cho SLL, hình thức
cũng giống như BĐ300 hay BĐ83 do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy vào thời kỳ
Combined Studies của CIA yểm trợ các cuộc hành quân ngoài Bắc. Anh Tường
cũng đề nghị -vì nhu cầu tình báo cấp tốc do P2/SLL nêu ra, anh đề nghị
tổ chức một đơn vị gồm nhiều toán biệt kích, phải xin chuyển ngay một
số toán Bắc Bình đang ở Long Thành sang kế hoạch hành quân Hạ Lào...vv.
Xin nói thêm là lúc này SLL và Sở Kỹ Thuật -tiền thân của NKT- là 2 đơn vị riêng biệt. Trước tháng 11-1963 cả 2 Sở đều
dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung. Sở LL, trước Cách Mạnh
1963 còn gọi Sở Nam hay nôm na là Mật Vụ, Sở Kỹ Thuật hay là Sở Bắc là
hậu thân của 6è Bureau và 6è Bureau là tập hợp của các toán nhỏ Affairs
Tonkinois của 2è Bureau. Khi người Pháp kiểm soát được một phần Thượng
du Bắc Việt, các toán nhỏ Affair Tonkinois được giải tán và nhân viên
gom lại thành 6è Bureau chuyên về các cuộc hành quân sau hậu tuyến địch.
Sau 1954, 6è Bureau chuyển sang QĐQGVN và là Phòng 6/BộTTM, Trưởng
Phòng là Đại Tá Lung. Qua vài lần cải tổ và đổi tên P6 trở thành Sở Kỹ
Thuật/Bộ TTM, cơ quan yểm trợ chuyển từ Combined Studies của CIA sang
cho MACSOG. MACSOG được thành lập để phụ trách các cuộc hành quân biệt
kích Miền Bắc tiếp tục công tác của Combined Studies. CHT Sở Kỹ Thuật từ
Đại Tá Lung, chuyển sang Đại Tá Lê Quang Tung, rồi Đại Tá Trần Văn Hổ
làm Giám Đốc khi SLL nhập vào SKT để thành một Nha, vị Giám Đốc sau cùng
là Đại Tá Đoàn Văn Nu.
Nói
tới danh xưng của NKT, thì có câu chuyện hiểu lầm tức cười là nhiều
người nghĩ rằng Sở KT và sau này là Nha KT thuộc Phòng 7 BTTM. Phòng 7
BTTM được thành lập trong thời gian Việt Nam Hóa Chiến Tranh, chuyên về
tác chiến điện tử,
kiểm thính mọi hoạt động liên lạc vô tuyến của Địch và là 1 trong số
nhiều nguồn cung cấp tin tức tình báo để dùng trong các kế hoạch đặc
biệt của PTB/NKT. Một vài bài viết của ai đó tự nhận là nhân viên NKT
cũng đã ngộ nhận như vậy !
Để
được MACV ủng hộ đề nghị hành quân Hạ Lào, Tường và tôi đã phải họp
nhiều lần với Đại Tá Koszebew, sĩ quan liên lạc của MACV có văn phòng
ngay trong BCH/SLL. Đại Tá Koszebew gần như hoàn tòan đồng ý với chúng
tôi về kế hoạch hành quân. Nhờ ông mà chúng tôi được giới thiệu với một
số cơ quan TB Hoa Kỳ, và có những buổi họp với MACV rồi MACSOG, trình
bày đề nghị của SLL về nhu cầu thả biệt kích dọc Trường Sơn, chúng tôi
đã gặp một số ý kiến chống đối của MACSOG vốn chỉ thiên về hành quân thả
dù và Biệt Hải và có thành kiến về khả năng của KQVN có thể cung cấp
hữu hiệu cho những cuộc hành quân xâm nhập và triệt thoái bằng trực
thăng H34. Trong các buổi họp đó, Nguyễn Mạnh Tường đã tỏ ra xuất chúng
khi đối phương vừa nêu ra một trở ngại, là anh đã có sẵn một giải pháp
soạn ra đúng thủ tục tham mưu. Xin nói thêm là anh Tường đã tham dự
nhiều khóa huấn luyện của QLVNCH và Hoa Kỳ. Khóa nào anh cũng là Thủ
Khoa với số điểm cách xa người thứ nhì, dù có học chung với sĩ quan Mỹ.
Kết
quả là MACSOG hài lòng với kế hoạch của Tường, SLL có ngay 10 toán biệt
kích chuyển từ các toán Bắc Bình ở Long Thành, có ngay 6 trực thăng H34
khả dụng do KQVN với số phi hành đoàn cần thiết mà chính anh Tường kín
đáo lặng lẽ sưu tra lý lịch, thành tích trong số người do KQVN đề
nghị...và đó là bước đầu của việc thành lập và tăng phái PĐ219, PĐ114
cho NKT sau này.
Kế
hoạch của anh Tường được MACSOG sửa đổi đôi chút, và họ thành lập OP35
để cùng SLL thực hiện các cuộc hành quân. Sở LL nay trở thành một đơn vị
của Sở KT nay là NKT, đối nhiệm của MACSOG. (Trước khi thành lập OP35,
MACSOG chỉ có OP31 đến OP34, các hoạt động tạm kể là Biệt Hải, Biệt Kích
Bắc, và Tâm Lý Chiến).
Nhưng
một chuyện bất ngờ xảy ra, anh Tường được lệnh chuyển sang BTL/CSQG. Từ
đó trách nhiệm cả P2 và P3/SLL do tôi kiêm nhiệm. Khi kế hoạch hành
quân được Pentagon bật đèn xanh, tôi được lệnh ra Đà Nẵng thiết lập
BCH/HQ Lôi Hổ bên cạnh tổ chức của đối nhiệm là C&C,Da Nang (Command
& Control) trực thuộc OP35 ở Saigon. Vào lúc này danh từ Chiến Đoàn
chưa được BTTM và MACV chấp thuận vì anh Tường dùng danh từ Task Force
để dịch chữ Chiến Đoàn. Phía đối nhiệm nại cớ Task Force là danh từ chỉ
một tập hợp đơn vị gồm nhiều binh chủng để thi hành một nhiệm vụ đặc
biệt và tạm thời. Với tôi, tôi nói "I don't care" tên gọi là cái gì, tôi
cần bảng cấp số được chấp thuận để tôi có phương tiện thi hành nhiệm vụ
giao phó.
Trong gần 2 năm cái BCH do
tôi thành lập ở Da Nang không có tên chính thức, chỉ gọi là Lôi Hổ, với
Mỹ thì là C&C VN,Danang với code name là Kayak, đối nhiệm của tôi
Trung Tá Raymond C.Call là Cherokee. Phải chờ cho đến khi BCS được chấp
thuận mới được gọi là Chiến Đoàn. Lúc này doanh trại ở Non Nước cũng đã
sẵn sàng đón các Toán ở Long Thành ra trú đóng thường trực. Bảng cấp số
của PD219 cũng được chấp thuận và các trực thăng chuyển từ Nha Trang ra
Da Nang.
Trước
khi danh xưng Chiến Đoàn được chấp thuận, khởi sự tôi có 6 toán với 6
phi hành đoàn do Trung úy sau là Đại úy Hồ Bảo Định chỉ huy, rồi tăng
dần lên 25, 30 Toán với 25 trực thăng. Lúc đầu xuất phát xâm nhập từ hầu
hết các căn cứ biên phòng từ Khe Sanh xuống tới Dak Pek, DakSut, Đức
Cơ. Các Toán trú ở Long Thành, được C130 Black Bird đưa từ Long Thành ra
Da Nang, hay Phú Bài, Kontum rồi chuyển sang trực thăng H34 đưa đến các
FOB để được thuyết trình HQ và sau đó lên đường xâm nhập. Từ cuối 1965
tới 1967, thời gian tôi chỉ huy Lôi Hổ ở Da Nang, báo chí không biết gì
về các cuộc oanh tạc của B52 trên đường mòn HCM do Lôi Hổ yêu cầu. Và
có lẽ đó là các hoạt động duy nhất của B52 trong chiến tranh VN vào thời
gian 1965-1967.
Tôi
xin kể chút kỷ niệm với các anh em của 6 phi hành đoàn trực thăng khi
vừa từ Nha Trang ra trình diện tôi ở phi trường Da Nang. Trung úy Hồ Bảo
Định, sau khi giới thiệu từng người của biệt đội, nói nhỏ với tôi một
nhân viên vừa mới kết hôn thì được lệnh cấp tốc ra Da Nang, anh ta có
mang theo tân nương trên trực thăng của Biệt Đội. Biệt đội xâm nhập ngay
trong ngày, lẽ ra tôi theo trực thăng đi FOB Khâm Đức ngay, nhưng tôi ở
lại Da Nang để thương thuyết nốt vụ thuê nhà cho phi hành đoàn. Tôi đã
giúp đối nhiệm thuê được 3 villas ở Da Nang, 1 cái dành cho SQ, HSQ Mỹ, 1
cái dành cho tôi và Trung Tá Call và cũng là nơi vãng lai cho cấp Tá.
Cái thứ 3 dành cho phi hành đoàn trực thăng, chật
chội ngay cả với các anh em độc thân. Nghĩ tới người anh em vừa kết
hôn, ngay trong ngày tôi kiếm thêm được một căn nhà có 6,7 phòng nhỏ vừa
cho từng cặp vợ chồng. Một anh Đại úy Mỹ phải lo sửa chữa và cung cấp
mọi tiện nghi căn nhà mới thuê ngay lập tức. Sau khi lo xong vụ nhà cửa
tôi mới vào Khâm Đức bằng L19. Đến chiều khi các trực thăng ở Khâm Đức trở về Da Nang tất cả nh ân viên phi hành đoàn đều có một chỗ nghỉ tiện nghi. Riêng tân lang được gửi tặng thêm 1 phong bì.
Trong
mùa mưa 1966, các đồn biên phòng như Ashao, A Lưới, Tà Bạt lần lượt
phải dẹp vì áp lực địch và vì không thể yểm trợ hữu hiệu trong mùa mưa.
C&C Da Nang chỉ còn duy trì được 2 FOB là Khâm Đức và Kontum. Khi
Bảng cấp số được chấp thuận, danh xưng Chiến Đoàn được chấp nhận, FOB
Kontum vẫn còn thuộc Chiến Đoàn 1 ở Đa Nang, và do ĐU N.V Thanh chỉ huy,
sau được ĐU Hồ Châu Tuấn thay thế, rồi Nguyễn Hương Rĩnh, tiếp theo là
Văn Thạch Bích. Khi Lôi Hổ có đủ số Toán để thành lập 2 CĐ thì FOB
Kontum thành BCH/CD2 tách ra khỏi CĐ1 ở Danang và tôi không còn phải phụ
trách các cuộc hành quân trong khu vực 3 biên giới nữa. Tới đây các
phần chính kế hoạch của anh Tường đã được thực hiện, tuy có khá nhiều
thay đổi để đáp ứng với tình thế lúc đó, nhưng tựu trung các điểm chính
đều đã được anh Tường đề nghị.
Đầu
năm 1967, tôi đang ở Da Nang rất bận rộn vừa lo hành quân, vừa lo doanh
trại mới bên Sơn Trà để đón các Toán từ Long Thành ra, thì được chỉ thị
bàn giao gấp cho Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh để về trình diện CHT SLL.
Tôi
xin mở dấu ngoặc ở đây - Trước khi tôi về SLL vào năm 1964, -để thi
hành một mật ước với hữu phái Lào- SLL đã gửi một phái đoàn do ĐU Hào,
Trung Úy Rĩnh, Thiếu Úy Phát, Trung úy Tiềm, Thiếu úy Am sang Hạ Lào, và
có cơ sở bên cạnh các Phân khu của QĐHGL như ở Savannakhet, Saravane,
Attopeu và Pakse, các Toán báo cáo trực tiếp về P2/SLL. Theo kế hoạch
của Tr.Tá Hùng CHP/SLL đề nghị thì sẽ phát triển sâu vào vùng địch và
lên Thượng Lào.
Rời
CĐ1, tôi về Saigon và nhận chỉ thị phải sang Lào chấn chỉnh lại Phái
Đoàn của Sở ở đó mà trước đây là một bộ phận của P2/SLL lúc tôi là
Trưởng Phòng. Nhân viên phái đoàn đã hủ hóa, người có vợ bé, người gây
xích mích với sĩ quan Lào, người bị nhóm buôn lậu mua chuộc, và nhất là
không phát triển sâu vào vùng địch, mà chỉ báo cáo các hoạt động của Bạn
là QDHG Lào cùng một vài cuộc thẩm vấn tù binh VC hay Pathet Lào bị
QDHG Lào bắt được, và cũng không bành trướng lên phía Bắc khỏi Thakhek
là địa điểm đối diện với Đèo Mụ Già cửa ngõ xâm nhập của Địch.
Tôi
sang Lào thực hiện được kế hoạch của Trung Tá Hùng là có thêm được một
Toán ở Luang Prabang, ở Vientian, ở Vang Vieng nơi đặt BCH của Tướng
Vang Pao, và Thakhek. Nhưng rồi các Toán ở Thượng Lào này, kể cả ở
Thakhek cũng phải rút trở xuống Hạ Lào vì các hoạt động của Sở trùng hợp
với các Toán của Trung Tá Thoại thuộc TƯTB và của Trung Tá Dung của
NKT. Khi soạn thảo kế hoạch, Trung Tá Hùng đã không được biết gì về các
hoạt động của TƯTB và NKT ở Thượng Lào.
Sau
hơn 2 năm ở Lào, hết nhiệm kỳ tôi trở về BCH/SLL thay thế cho Thiếu Tá
Nguyễn Hữu Trang làm TMT Sở. Anh Trang sang Lào thế vào chỗ tôi. Tôi ở
Saigon không lâu, rồi lên Ban Me Thuot làm CĐP/CĐ3 cho anh Thiếu Tá Tùy
CĐT mới từ LLDB sang, nhưng lại đang chuẩn bị rời chức vụ này. Anh Tùy
từ BB sang LLDB, bị vất vả vì phải đổi đi đồn biên phòng. Anh được về
SLL nhưng lại phải lên cao nguyên và nắm chức vụ CĐT một CĐ mới lập mà
thành phần Toán đa số là Mike Force người Miên và Nùng chuyển qua. Anh
Tùy hoàn toàn xa lạ với phương thức Targetting đặc biệt của Lôi Hổ, anh
không họp tham mưu hỗn hợp, anh không muốn đi cùng trực thăng với đối
nhiệm trong các cuộc xâm nhập, anh tính chuyện bỏ SLL. Vì vậy mà tôi
phải lên BMT vào lúc địch toan tính dứt điểm các đồn từ Ban Đong xuống
tới Kiến Đức.
Ngày nào CĐ3 cũng có ít nhất
2, 3 toán hoạt động dưới đất. Hàng ngày trực thăng bay ra vào vùng hành
quân như đi chợ. Số tôi chỉ huy mát tay, nên chỉ mất có 1 Toán Trưởng
(CU Phan Nhật Văn) và 1 Toán Phó lúc còn ở Da Nang. Và phải nói là nhờ
tài nghệ tuyệt diệu của các Pilot PĐ219, xâm nhập cũng như triệt thoái
bất kể giờ giấc đều bay sát ngọn cây, khiến địch không trở tay để sử
dụng SA7 và luôn đến đúng LZ thả cũng như đón Toán.
Lần
theo Toán xâm nhập chót của tôi, khi trở về nghe trên máy có May Day
của một trực thăng bạn trúng SA7 trên không phận Đức Lập. Về tới BCH/CĐ3
được biết đó là trực thăng của LLDB Mỹ, chở CHT Toán B của Mỹ và vị đối
nhiệm phía VN từ Nha Trang bay lên quan sát trận đánh đang tiếp diễn ở
căn cứ LLDB Đức Lập. Vì bay cao nên đã lãnh SA7.
Thật
hú vía, tôi đã bay trên trực thăng PĐ219, chứ nếu bay trên trực thăng
Mỹ thì đâu còn có mặt ở đây. Các vị sĩ quan Việt Mỹ đó có ghé BMT và gặp
đối nhiệm của tôi ở BCH/CĐ3. Ông Trung Tá đối nhiệm của tôi cũng mừng
hú vía khi từ chối bay cùng các ông bạn từ Nha Trang lên. Thật ra thì
công việc của chúng tôi ở CĐ3 lúc đó là làm sao không cho địch tập trung
tung ra thêm đơn vị để dứt điểm Đức Lập và Ban Dong. Các Toán của CĐ3
đang cố gắng phát giác mọi di chuyển và tập trung của địch trên đất
Miên, BCH/CĐ3 sẽ xin B52 đánh vào những khu vực tập trung quân của địch.
Sau này đọc những hồi ký của các Tướng Lãnh địch mới biết là chiến dịch
của chúng thất bại vì bị tổn thất nặng do B52. Đó là nhờ các thành quả
của các toán CĐ3 và PĐ219 mà Đức Lập qua được trận công kích năm đó.
Nhiều
anh em biệt kích SLL, SCT còn sống sót tới nay có thể đã nhờ các Pilot
219 không ngại hiểm nguy, lăn vào vùng lửa đạn để mang các anh về. Chúng
ta phải nhớ cái ơn vô cùng to lớn này.
Sau
khi địch thất bại trong chiến dịch dứt điểm ở khu vực từ Ban Dong xuống
đến Kiến Đức, tôi được lệnh về BCH/NKT thay thế cho Trung Tá Đỗ Văn
Tiên ở chức vụ TP Tình Báo NKT. Anh Tiên bị MACSOG đề nghị thay thế vì
gia đình có người dính líu đến VC. Thời gian tôi ở với CĐ3 như vậy chỉ
có vài tháng và không ngày nào không có hành quân.
Lúc
này Nguyễn Mạnh Tường đã rời CSQG và đang là TP Hành Quân NKT. Chúng
tôi như đôi đũa lại có dịp cùng làm việc, ưu tiên thượng cấp giao cho
anh Tường lúc này là tái tổ chức NKT, thành lập Sở Công Tác, với sự tách
rời vài bộ phận của Sở Tâm Lý Chiến, anh phải viết lại BCS mới của Nha.
Thay mặt cho NKT hay đúng hơn là thay mặt cho Trung Tá Nguyễn Minh Tiến
CSV/Sở HQTB -Tường phải tham dự tất cả các buổi họp với TTM, với MACV,
MACSOG. Anh Tường bị áp lực từ tứ phía, từ nội bộ Nha phải tranh đấu
với TTM và MACV được thêm quân số, cấp bậc tương ứng của các cấp từ Toán
viên đến Giám Đốc Nha. Tuy tôi có tham dự một vài buổi họp như vậy cùng
với Tường, nhưng rồi nhức đầu quá lấy lý do tôi đang có những cuộc hành
quân tình báo đặc biệt, tôi để Tường lãnh trọn.
Sau
lễ Giáng Sinh 1970 Tường đưọc thuyên chuyển ra Phú Yên, cuộc đời anh
lại một lần nữa sang trang. Lần này anh nổi tiếng đã giữ vững vùng trách
nhiệm không để lọt vào tay địch, nhưng vì trách nhiệm với nước, với
dân, với quân đội anh đã không thể trọn tình với gia đình. Cuộc đời anh
cô độc từ đây cho đến ngày anh được các chiến hữu tiễn đưa lần chót.
Gần
đây có vụ đột kích bắt Bin Laden, tôi xin kể lại một vụ đột kích khác
của Mỹ trong đó nhiều nhân viên Mỹ của OP35 hay của C&C Da Nang tham
gia.
Khoảng
đầu năm 1967, có tin tức mơ hồ về 1 trại giam tù binh Mỹ gần Hanoi. Tôi
cùng Đại tá Simons, boss của OP35 và Trung tá Call đối nhiệm của tôi đã
cùng bay sang Nakhon Phanom và Udorn Thái Lan. Nakhon Phanom là nơi
người Mỹ thiết lập Trung Tâm Tác Chiến Điện Tử, còn căn cứ không quân
Udorn là nơi có một số phi cơ không thám SR111 và SR71 chuyên bay thám
thính chụp ảnh Bắc Việt. Sau chuyến bay này Đại tá Simons mang về một số
t ài liệu
không ảnh và dụng cụ điện tử. Trung tá Call nói riêng cho tôi biết có
thể C&C Danang phải cung cấp vài toán cho một cuộc hành quân giải
cứu tù binh.
Mãi
tới 1970 tôi mới được biết rằng Pentagon đã không dùng toán VN mà dùng
toàn biệt kích Mỹ, trong đó đa số là sĩ quan và HSQ của C&C Danang.
Cuộc hành quân đột kích này chỉ huy bởi Đại Tá Simons đặt ở Monkey
Montain hay còn gọi là Đài Radar Panama ở Sơn Trà. Dick Meadow -người
chỉ huy toán biệt kích nhảy xuống trại giam là một HSQ lúc mới tới trình
diện C&C Danang năm 1965. Vào lúc anh chỉ huy toán biệt kích nhảy
xuống Sơn Tay anh mang cấp bậc Đại Úy. Cuối năm 1970, sau vụ đột kích,
Đại tá Nu và tôi có gặp Dick Meadow ở Fort Benning. Trung tá Call đối
nhiệm của tôi về hưu năm 1970 và qua đời ở Florida năm 1976. Đại tá
Simons là một huyền thoại của LLDB Hoa Kỳ và là một anh Mỹ khó tính, độc đoán,
lên cấp từ HSQ, lập được nhiều chiến công trong WW2. Ông này và Đại tá
Hồ Tiêu ít khi giao thiệp trực tiếp với nhau. Sau thất bại ở Sơn Tây,
Đại Tá Simons còn tổ chức vụ đột kích thất bại khác vào Iran và đã làm
Tổng thống Carter mất điểm trong vụ tái cử. Simons về hưu và hết là một
huyền thoại của Quân Đội Mỹ.
Lắm lúc tôi tự hỏi,
nếu Nguyễn Mạnh Tường thiết kế cuộc HQ Sơn Tây này, và được thực hiện
sớm hơn 1,2 năm thì kết qủa sẽ ra sao. Tôi đã có ý nghĩ như vậy vì cuộc
triệt thoái khỏi An Lộc của BĐQ do anh thiết kế và thực hiện là một cuộc
HQ tuyệt vời đáng để học hỏi mãi mãi về sau. Lực lượng của ta ra khỏi
An Lộc là một hoàn toàn bất ngờ của địch. Chỉ có 2 khẩu 155 ly và đạn
dược không thể mang ra được là phải phá hủy tại chỗ.
Để chấm
dứt câu chuyện tâm tình với anh em về một chiến hữu thân thương của
chúng ta, tôi xin các anh em hãy nhớ lại Nguyễn Mạnh Tường, người đã
khai sinh ra các cuộc hành quân vượt biên của Lôi Hổ mà tôi đã hân hạnh
là người đầu tiên hướng dẫn anh em thực hiện kế hoạch của anh. Hy vọng
câu chuyện cũng giúp các bạn biết thêm phần nào về huyền thoại NKT, SLL, Sở Công Tác và PĐ219. Chuyện của những anh hùng quân đội lặng lẽ góp phần vào cuộc chiến tranh trong bóng tối.
Phan Trọng Sinh
2011
Phạm Hòa và NT Phan Trọng Sinh
Friday, March 29, 2013
Huyền Thọai Đơn Vị SOG
1- TỔNG KẾT ĐƠN VỊ SOG
Vào lúc nửa đêm ngày 30 tháng Tư năm
1972, chiến sĩ, nhiệm vụ và đơn vị SOG “Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát” đi vào lịch sử.
Đơn vị SOG giải tán theo chương trình rút quân của quân đội Hoa Kỳ và đơn vị bí
mật “Nha Kỹ Thuật” sẽ thay thế đơn vị SOG. Toán cố vấn STDAT #158 gồm có các cố
vấn trưởng, cầp chỉ huy dưới quyền Đại Tá Presson thuộc Lưc Lượng Đặc Biệt Hoa
Kỳ có nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật chuyên môn cho các bộ phận trực thuộc Nha Kỹ
Thuật, Quân Lực VNCH.
Từ tháng Giêng năm 1964 cho đến cuối tháng
Tư năm 1972, vùng hoạt động, khu vực hành quân xâm nhập của đơn vị SOG rất nguy
hiểm, trải dài từ những tỉnh phiá nam Trung Hoa cho đến tận vùng đồng bằng phiá
nam Cambodia. Các cuộc hành quân bí mật (chiến dịch) của đơn vị MAC-SOG, 31,
34(A) và 33, 34(B) nhắm vào khu vực phiá bắc. Hành quân 80 “Phòng Nghiên Cứu Thâu
Hồi” (Recovery Studies Division), mới đầu xử dụng căn cứ, phương tiện trực thăng,
quân biệt kích từ hành quân 35 (Biệt Hải), thực hiện những chuyến cấp cứu phi công
Hoa Kỳ bị bắn rơi nơi miền bắc Việt Nam và bên Lào, thâu hồi (xác chết). Hành
quân 35, 36 đảm trách các cuộc hành quân thám sát khu vực phi quân sự, Lào và
Cambodia.
Trong những năm cuối, đơn vị SOG đảm
nhiệm thêm nhiệm vụ tiêu diệt “chính phủ trong bóng tối” (shadow government -
MTGPMN) của chính quyền Hà Nội. Những tin tức tình báo chiến lược lấy được về
quân đội Bắc Việt có giá trị rất cao cho cấp chỉ huy Hoa Kỳ và Đồng Minh trong
vấn đề điều quân.
Tháng Sáu năm 1972, Đại Tướng Frederick
C. Weyand là vị tư lệnh cuối cùng của Bộ Chỉ Huy Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Ngày 12 tháng Ba năm 1973, đơn vị Nha Kỹ Thuật QLVNCH chấm dứt tất cả các cuộc
hành quân ngoại biên do đơn vị SOG bàn giao lại. Ngày 29 tháng Ba năm 1973, bộ
chỉ huy Quân Viện Hoa Kỳ (cơ quan MACV) lặng lẽ chấm dứt nhiệm vụ cũng như khi
họ đến Việt Nam.
II.SOG / NHA KỸ THUẬT QLVNCH
Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and
Observation Group – SOG) trực thuộc cơ quan MACV (MACV-SOG) là một đơn vị tối mật
do các quân nhân tuyển mộ từ Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đảm trách, thâu thập tin
tức tình báo chiến lược, trước và trong chiến tranh Việt Nam. Đơn vị SOG được
thành lập ngày 24 tháng Giêng năm 1964, để thực hiện các cuộc hành quân xâm nhập
lấy tin tức tình báo chiến lược trong miền nam, miền bắc Việt Nam, Lào và
Cambodia. Ngoài ra các toán biệt kích SOG đảm nhận thêm những nhiệm vụ đặc biệt
như bắt sống tù binh đem về khai thác lấy tin tức (mới nhất), cấp cứu phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi (nơi miền
Bắc Việt Nam hay trên đất Lào), hoặc cứu tù binh Hoa Kỳ (và Đồng Minh) bị giam
giữ trong các trại tù binh bí mật của địch trong vùng Đông Nam Á. Bộ phận khác
thuộc đơn vị SOG lo nhiệm vụ tâm lý chiến, đánh lừa địch, gài điệp viên, nội
tuyến vào trong hàng ngũ của địch.
Đơn vị SOG góp phần trong gần hết các
cuộc hành quân, chiến dịch nổi tiếng trong trận chiến tranh Việt Nam, kể cả vụ
“chạm trán” vùng Vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gulf Incident) đưa đến việc Hoa Kỳ leo
thang, đem quân qua Việt Nam. Các cuộc hành quân khác như: Hổ Thép (Tiger
Steel), Tiger Hound, tết Mậu Thân (Tet Offensive), vượt biên qua Cambodia, qua
đất Lào (Lam Sơn 719), và trận tấn công lễ Phục Sinh (Easter Offensive – Mùa Hè
Đỏ Lửa).
Đơn vị SOG được thay thế bởi toán cố vấn
158 với nhiệm vụ cố vấn cho Nha Kỹ Thuật QLVNCH ngày 1 tháng Năm, 1972.
Nha Kỹ thuật, Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Nha Kỹ thuật (tiếng Anh: Strategic Technical Directorate - STD) là cơ quan tình báo chiến lược của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đặc trách tổ chức, hoạt động thu thập tin
tức tình báo, phản tình báo chiến lược chống lại chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[1]. Nha Kỹ thuật thành lập tháng 12 tháng 2 1965,[2] giải tán vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 theo khẩu lệnh của Đại tướng Tổng Tham mưu Trưởng.
Mục lục |
Tổ chức
Nha Kỹ thuật ngang cấp sư đoàn bao gồm:- Sở Công tác đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng. Sở có các đoàn 11, 71, 72 đóng tại Ðà nẵng, đoàn 75 đóng trên Pleiku (Quân khu II) và đoàn 68 tại Sài Gòn (Biệt khu Thủ đô). Các toán trong đoàn công tác có nhiệm vụ xâm nhập bằng hàng không hay đường bộ vào lòng đối phương tại Bắc Việt hay biên giới Lào, Campuchia hoặc Thái Lan. Chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở Công tác là đại tá Ngô Thế Linh, nguyên là Phó Giám đốc Nha Kỹ thuật. Các chỉ huy kế tiếp là đại tá Nguyễn Văn Hai và Đại Tá Ngô xuân Nghị.
- Sở Liên lạc (Biệt kích Lôi hổ) đóng tại Sài gòn. Sở có các chiến đoàn 1 tại Ðà Nẵng, chiến đoàn 2 trên Kon Tum và chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột. Các toán thuộc Sở Liên lạc có nhiệm vụ xâm nhập vào hậu tuyến đối phương từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau.
- Sở Phòng vệ Duyên hải (Coastal Security Service) đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng gồm Lực lượng Hải tuần và Lực lượng Biệt Hải. Lực lượng Hải tuần có nhiệm vụ chính là thi hành những công tác hành quân đặc biệt bằng đường biển trong vùng lãnh hải Bắc Việt từ vĩ tuyến 17 Bắc trở lên, thả và vớt các toán Biệt hải, các chiến đĩnh thuộc Lực lượng Hải tuần còn thực hiện nhiều công tác riêng biệt khác như pháo kích, chận bắt tầu bè, chiến tranh tâm lý v.v. Lực lượng Biệt hải có nhiệm vụ dùng người nhái xâm nhập Bắc Việt.
- Sở Tâm lý chiến: đóng tại số 7 đường Hồng Thập Tự,[3] Sài Gòn có nhiệm vụ tổ chức và điều hành Đài Tiếng nói Tự do và Đài Gươm thiêng Ái quốc.
- Sở Không yểm đóng tại Sài Gòn thuộc Không quân Việt Nam Cộng hòa có nhiệm vụ phối trí với các phi đoàn trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và rút các toán hoạt động trong lòng đối phương.
- Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng đóng tại Long Thành, Biên Hoà huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, các phương pháp xâm nhập vào đất đối phương, hoạt động nơi hậu phương đối phương, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lý v.v.
Chỉ huy trưởng qua các thời kỳ
- Đại tá Lê Quang Tung (tháng 4/1963-11/1963, thời còn mang tên Sở Khai thác Địa hình)
- Trung tướng Lê văn Nghiêm (1963-1964)
- Đại tá Trần Văn Hổ[4](1964-1968)
- Đại tá Đoàn Văn Nu (1968-1975).
Tham khảo và chú thích
- ^ Lịch sử Nha Kỹ thuật
- ^ Lúc đầu là cấp sở do đại tá Trần Văn Hổ chỉ huy, sau nâng lên cấp nha, tiền thân là Sở Khai thác Địa hình (Topographic Exploitation Service) do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy
- ^ Nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai
- ^ Ngày 20 tháng 8 năm 1955, Thiếu Tá Trần Văn Hổ nhận chức vụ Phụ Tá Không Quân từ người Pháp, vì thế ông được xem như là vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Quân Chủng Không Quân.
Xem thêm
Thể loại:
SOG also became responsible for covert cross-border operations, firstly into Laos (code name: Shinning Brass) in March 1965 , and secondly into Cambodia (code name: Daniel Boone) in May 19673. These cross-border operations were run by three Command & Control detachments:
Reconnaissance (or Spike) teams typically consisted of three American Special Forces NCOs and nine indigenous personnel, all of whom wore and carried unmarked clothing and equipment, in order to maintain plausible deniability 4. Though their primary task was to gather intelligence on enemy movements, they also captured prisoners, conducted bomb damage assessments, planted Igloo White sensors and placed booby-trapped Communist ammunition on the Ho Chi Minh trail. Operations in Cambodia were restricted to ground reconnaissance only, however in Laos, air and ground exploitation forces were authorized to attack and destroy targets identified by the recon teams.
The vast majority of SOGs 34A program (now code named Footboy) against North Vietnam came to an end on November 1st 1968, in conjunction with President Johnson's decision to halt the Rolling Thunder bombing campaign 5. Only radio broadcasts and letter delivery operations continued. US participation in cross-border operations in Cambodia continued until July 1st 1970, and in Laos until February 8th 1971. Subsequently, all cross border operations were conducted by ARVN and/or indigenous personnel, however, US led cross-border rescue missions (code name: Bright Light) were authorized on a case-by-case basis.
SOG was officially deactivated on April 30th 1972 and was immediately replaced by a small group that was to advise South Vietnam’s Strategic Technical Directorate (STD) 6. Though STDAT-158 (Strategic Technical Directorate Assistance Team 158) was an advisory agency, its US led Special Mission Force (SMF) was tasked with conducting both in-country and cross-border crash site inspections and personnel recovery missions.
After the signing of the peace treaty on January 27th 1973, STDAT-158 continued to provide limited advisory support until it was deactivated on March 12th 1973.
- Tình báo Việt Nam Cộng hòa
- Quân binh chủng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
-
SOG
The Studies and Observations Group was a U.S. task force formed on January 24th 1964 to carry out OPLAN 34A, a program of covert actions designed to convince the North Vietnamese leadership to desist from supporting and directing the war in the Republic of Vietnam (RVN)1. In doing so, SOG was to advise its South Vietnamese counterpart organization, the Special Exploitation Service (SES).
Initially SOG was divided into four sections2: - Psychological - The PSYOPS division attempted to encourage and exploit discontent amongst the North Vietnamese population. In addition to producing propaganda materials, SOG / SES endeavoured to convince Hanoi that a resistance movement existed within its borders by creating the Sacred Sword of the Patriot League. From their base on Paradise Island, which purported to be in the North’s waters but was actually off the coast of Da Nang, SES personnel indoctrinated captured North Vietnamese fisherman in the precepts of the SSPL before sending them home to spread the word. Radio broadcasts were also used to enhance the movement’s credibility.
- Airborne / Agent Teams - Based at Long Thanh, the Airborne Operations section in conjunction with the SES, supervised the recruitment, training and infiltration of Vietnamese agents into North Vietnam to conduct intelligence and sabotage activities.
- Air - From its base at Nha Trang, AIROPS operated a variety of unmarked fixed and rotary wing aircraft that were used to transport and supply agent teams and to drop psyops leaflets and radios over North Vietnam etc.
- Maritime (MAROPS) - The Naval Advisory Detachment (NAD) based at Da Nang trained South Vietnam’s Coastal Security Service (CSS) to interdict North Vietnamese craft, gather intelligence and attack coastal targets.
SOG also became responsible for covert cross-border operations, firstly into Laos (code name: Shinning Brass) in March 1965 , and secondly into Cambodia (code name: Daniel Boone) in May 19673. These cross-border operations were run by three Command & Control detachments:
- Command and Control North – Located at Da Nang, CCN (the first C&C facility) controlled the operations of reconnaissance teams in Laos
- Command and Control South – Located at Ban Me Thout and opened subsequent to the initiation of the Daniel Boone mission, CCS controlled the operations of recon teams in Cambodia
- Command and Control Central – Located at Kontum in the Central Highlands, CCC was the third C&C facility to be formed and oversaw reconnaissance operations in the tri-border region of Laos, Cambodia and Vietnam
Reconnaissance (or Spike) teams typically consisted of three American Special Forces NCOs and nine indigenous personnel, all of whom wore and carried unmarked clothing and equipment, in order to maintain plausible deniability 4. Though their primary task was to gather intelligence on enemy movements, they also captured prisoners, conducted bomb damage assessments, planted Igloo White sensors and placed booby-trapped Communist ammunition on the Ho Chi Minh trail. Operations in Cambodia were restricted to ground reconnaissance only, however in Laos, air and ground exploitation forces were authorized to attack and destroy targets identified by the recon teams.
The vast majority of SOGs 34A program (now code named Footboy) against North Vietnam came to an end on November 1st 1968, in conjunction with President Johnson's decision to halt the Rolling Thunder bombing campaign 5. Only radio broadcasts and letter delivery operations continued. US participation in cross-border operations in Cambodia continued until July 1st 1970, and in Laos until February 8th 1971. Subsequently, all cross border operations were conducted by ARVN and/or indigenous personnel, however, US led cross-border rescue missions (code name: Bright Light) were authorized on a case-by-case basis.
SOG was officially deactivated on April 30th 1972 and was immediately replaced by a small group that was to advise South Vietnam’s Strategic Technical Directorate (STD) 6. Though STDAT-158 (Strategic Technical Directorate Assistance Team 158) was an advisory agency, its US led Special Mission Force (SMF) was tasked with conducting both in-country and cross-border crash site inspections and personnel recovery missions.
After the signing of the peace treaty on January 27th 1973, STDAT-158 continued to provide limited advisory support until it was deactivated on March 12th 1973.
Subscribe to:
Posts (Atom)